Một bài viết tổng hợp, sẽ cố gắng đề cập càng nhiều càng tốt các vấn đề có thể gặp khi đụng đến unit test với React.
Tại sao phải test?
Rất hiển nhiên là chúng ta viết test nhằm mục đích hạn chế được càng nhiều lõi càng tốt, đảm bảo những gì chúng ta viết ra chạy đúng như chúng ta mong muốn. Một vài điểm trừ khi chúng ta phải viết test
- Là nó tốn thời gian và tương đối khó khăn (dù là lập trình viên kinh nghiệm cũng gặp không ít vất vả khi mới bắt đầu viết test)
- Test pass không có nghĩa ứng dụng, function của chúng ta chạy đúng 100%
- Cũng đôi khi, test fail, nhưng ứng dụng, function vẫn chạy hoàn toàn bình thường
- Trong vài trường hợp đặc biệt, chạy test trong CI có thể tốn tiền
Tuyển lập trình react lương cao up to 20M
Test cái gì?
Test các chức năng, function của ứng dụng, những cái mà user sẽ sử dụng. Nó giúp chúng ta tự tin vỗ ngực, ứng dụng đáp ứng đúng nhu cầu sử dụng
Không test cái gì
Thích quan điểm của Kent C về việc không nên đi quá chi tiết việc hiện thực. Việc mà code nó hiện thực như thế nào chúng ta không quan tâm, user không quan tâm, chúng ta chỉ quan tâm đầu vào-đầu ra của một function.
Các thư viện của người khác viết cũng là thứ không cần thiết phải test, nó là trách nhiệm của người viết thư viện. Nếu không tin thì đừng dùng nó. Còn nếu thật sự có tâm bạn hãy hỗ trợ cho thư viện đó trên github bằng cách bổ sung test cho nó.
Một vài triết lý cá nhân khi test
Nhiều integration test, không dùng snapshot test, vài unit test, vài e-to-e test.
Hãy viết thật nhiều integration test, unit test thì tốt nhưng nó không thật sự là cách mà người dùng sử dụng ứng dụng. Việc test chi tiết code hiện thực ra sao với unit test rất dễ.
Integration test nên dùng mock (dữ liệu giả lập) ít nhất có thể
Không nên test những cái tiểu tiết như tên hàm, tên biến, cách khai báo biến số, hằng số có hợp lý.
Shallow vs mount
Mount là phần html, css, js thật sự khi chạy, như cách mà browser sẽ thấy, nhưng theo cách giả lập. Nó không có render, paint bất cứ thứ gì lên UI, nhưng làm như thể nó là browser thật sự và chạy code ngầm bên dưới.
Không bỏ thời gian ra để paint ra UI giúp test chạy nhanh hơn. Tuy nhiên nó vẫn chưa nhanh bằng shallow render
Đó là lý do bạn phải unmount
và cleanup
sau mỗi test, nếu không test này sẽ gây side-effect lên test kia.
Mount/render thường được sử dụng cho integration test và shallow sử dụng cho unit test.
Kiểu shallow render sẽ chỉ render ra một component đang test mà không bao gồm các component con, như vậy để tách biệt việc test trên từng component độc lập.
Lấy ví dụ như component cha, con như sau
import React from 'react' return ( ) } return ( ) }
Nếu chúng ta dùng shallow render component App
, chúng ta sẽ nhận được DOM như sau, phần ChildComponent
sẽ không bao gồm bộ “ruột” bên trong
Với mount, thì chúng ta có
react-testing-library là một thư viện khá ổn cho việc viết unit test react, tuy nhiên Enzyme là nền tảng cần nắm chắc, chúng ta sẽ đề cập nó trước
Enzyme
Cài đặt
npm install enzyme enzyme-to-json enzyme-adapter-react-16
Sơ qua những gì chúng ta sẽ import
import React from 'react' import ReactDOM from 'react-dom' import Basic from '../basic_test' import Enzyme, { shallow, render, mount } from 'enzyme'; import toJson from 'enzyme-to-json' import Adapter from 'enzyme-adapter-react-16' Enzyme.configure({ adapter: new Adapter() })
3 cái import đầu tiên là cho React và component đang test, sau đó đến phần của Enzyme, toJson
là để chuyển shallow component của chúng ta ra thành JSON để lưu thành snapshot
Cuối cùng là Adapter để làm việc được với react 16
Thực hiện test chi tiết với Enzyme
import React, { Component } from 'react' class Counter extends Component { constructor(props) { super(props) this.state = { count: 0 } } this.setState({count: this.state.count + 1}) } // đoạn code này mặc dù ko đúng, nhưng khi test vẫn cho kết quả pass render() { return ( )} } export default Counter;
Trong component trên, chúng ta cố tình gõ sai chữ incremen
, ứng dụng sẽ không chạy, nhưng khi chạy test thì vẫn pass
File test
import React from 'react'; import ReactDOM from 'react-dom'; import Counter from '../counter'; import Enzyme, { shallow, render, mount } from 'enzyme'; import toJson from 'enzyme-to-json'; import Adapter from 'enzyme-adapter-react-16'; Enzyme.configure({ adapter: new Adapter() }) test('increment method increments count', ( expect(wrapper.instance().state.count).toBe(0) wrapper.instance().increment(); expect(wrapper.instance().state.count).toBe(1)Thứ nhất là cách viết test như vậy có vấn đề, chúng không mô phỏng cách mà user sẽ sử dụng, chúng ta gọi thẳng
increment()
.Vậy người nông dân biết phải làm sao?
React-testing-library
Từ thư viện
react-testing-library
, nó đưa ra một nguyên lý chung như sauTest càng gần với thực tế sử dụng của ứng dụng, test càng đem đến sự tự tin cho chúng ta
Hãy tâm niệm nguyên lý này trong đầu, chúng ta sẽ còn bàn tiếp về nó
useState
Hay bắt đầu test React hook, chúng ta đã và đang sử dụng nó nhiều hơn là class component
import React, { useState } from 'react'; const [state, setState] = useState("Initial State") setState("Initial State Changed") } props.changeName() } return ( State Change Button Change Name ) } export default TestHook;Prop sẽ được nhận từ component cha là
App
const [state, setState] = useState("Some Text")
const [name, setName] = useState("Moe")
...
setName("Steve")
}
return (
...Với nguyên lý như đã nói, chúng ta sẽ thực hiện test như thế nào
npm install @testing-library/reactThực hiện việc test
import React from 'react' import ReactDOM from 'react-dom' import TestHook from '../test_hook.js' import { render, fireEvent, cleanup } from '@testing-library/react' import App from '..al/App' afterEach(cleanup) expect(getByText(/Initial/i).textContent).toBe("Init State"); expect(getByText(/Initial/i).textContent).toBe("Initial State Changed")) }) expect(getByText(/Moe/i).textContent).toBe("Moe") expect(getByText(/Steve/i).textContent).toBe("Steve") })Vì không sử dụng shallow render, nên chúng ta phải gọi
afterEach(cleanup)
để dọn dẹp sau mỗi lực thực hiện test
getByText
là phương thức nằm trong hàmrender
, còn vài kiểu query khác nữa, nhưng đây là kiểu mà chúng ta dùng nó nhiều nhất, có thể nói là đủ dùng.useReducer
Reducer chúng ta sẽ test
import * as ACTIONS from './actions' export const initialState = { stateprop1: false, } switch(action.type) { case "SUCCESS": return { ...state, stateprop1: true, } case "FAILURE": return { ...state, stateprop1: false, } default: return state } }Action
export const SUCCESS = { type: 'SUCCESS' } export const FAILURE = { type: 'FAILURE' }Cuối cùng là component sử dụng action và reducer đã định nghĩa
import React, { useReducer } from 'react'; import * as ACTIONS from '../store/actions' import * as Reducer from '../store/reducer' const [reducerState, dispatch] = useReducer(Reducer.Reducer1, Reducer.initialState) dispatch(ACTIONS.SUCCESS) } dispatch(ACTIONS.FAILURE) } return ( {reducerState.stateprop1 Dispatch Success ) } export default TestHookReducer;Component này sẽ đổi giá trị của
stateprop
từfalse
sangtrue
bằng việc dispatch mộtSUCCESS
actionThực hiện test
import React from 'react'; import ReactDOM from 'react-dom'; import TestHookReducer from '../test_hook_reducer.js'; import {render, fireEvent, cleanup} from '@testing-library/react'; import * as Reducer from '../../store/reducer'; import * as ACTIONS from '../../store/actions'; afterEach(cleanup) import { render } from "ejs"; expect(Reducer.initialState).toEqual({ stateprop1: false }) }); expect(Reducer.Reducer1(Reducer.initialState, ACTIONS.SUCCESS )).toEqual({ stateprop1: true }) }) }) expect(getByText(/stateprop1 is/i).textContent).toBe("stateprop1 is false") expect(getByText(/stateprop1 is/i).textContent).toBe("stateprop1 is true") })Trước tiên chúng ta test cái reducer bên trong khối
describe
, thực hiện một test đơn giản với giá trị initial state và sau khi có action success.Với ví dụ trên, reducer và action rất chi là đơn giản, bạn có thể nói không cần thực hiện unit test cho nó làm gì, nhưng trong thực tế sử dụng reducer sẽ không hề đơn giản thế, và việc test reducer là thực sự cần thiết, không những vậy, chúng ta còn phải test theo hướng chi tiết hiện thực bên trong.
useContext
Giờ chúng ta đi đến việc test một component con có thể cập nhập context state trong component cha.
Thường thì context sẽ được khởi tạo trong một file riêng
import React from 'react' const Context = React.createContext() export default ContextChúng ta sẽ cần một component cha, nắm giữ Context provider. Giá trị truyền vào cho provider sẽ là giá trị
state
và hàmsetState
import React, { useState } from 'react'; import TestHookContext from './components/react-testing-lib/test_hook_context'; import Context from './components/store/context'; const [state, setState] = useState("Some Text") setState("Some Other Text") } return ( <Context.Provider value={{changeTextProp: changeText, stateProp: state ); } export default App;Component con, đây là component chúng ta muốn test
import React, { useContext } from 'react'; import Context from '../store/context'; const context = useContext(Context) return ( Change Text ) } export default TestHookContext;Lưu ý: các giá trị của
state
, khởi tạo, cập nhập điều nằm trongApp.js
, chúng ta chỉ truyền giá trị này xuống các component con thông qua context, mọi thứ điều thực hiện ởApp
, cái này quan trọng cần nhớ để hiểu lúc testimport React from 'react'; import ReactDOM from 'react-dom'; import TestHookContext from '../test_hook_context.js'; import {act, render, fireEvent, cleanup} from '@testing-library/react'; import App from '../../../App' import Context from '../../store/context'; afterEach(cleanup) expect(getByText(/Some/i).textContent).toBe("Some text") expect(getByText(/Some/i).textContent).toBe("Some other text") })Với context chúng ta cũng không hề thay đổi cách làm như với
useState
, vẫn là tìm và đặt expect thông qua kết quả nhận được cuối cùng.Tại sao lại như vậy?
TopDev via Vuilaptrinh