Xem 7,821
Cập nhật nội dung chi tiết về Tăng Huyết Áp Khi Mang Thai mới nhất ngày 24/05/2022 trên website Richlandemerald.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 7,821 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
-
Đối với tăng huyết áp nhẹ, các biện pháp điều trị bảo tồn sau đó là thuốc hạ huyết áp nếu cần
-
Methyldopa, thuốc chẹn beta hoặc thuốc chẹn kênh canxi được dùng thử trước tiên
-
Tránh dùng các thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE), thuốc ức chế thụ thể angiotensin II (ARB) và thuốc đối kháng aldosterone
-
Đối với tăng huyết áp vừa hoặc nặng, điều trị hạ huyết áp, theo dõi sát và nếu tình trạng xấu đi, có thể chấm dứt thai kỳ hoặc sinh nở, tùy thuộc vào tuổi thai
Các khuyến nghị với tăng huyết áp mạn tính và tăng huyết áp thai kỳ là tương tự nhau và phụ thuộc vào mức độ nặng. Tuy nhiên, tăng huyết áp mạn tính có thể nặng hơn. Trong tăng huyết áp thai kỳ, tăng BP thường chỉ xảy ra muộn trong thời kỳ mang thai và có thể không cần điều trị.
Điều trị tăng huyết áp nhẹ đến trung bình mà không bị suy thận trong quá trình mang thai còn nhiều tranh cãi; vấn đề là liệu việc điều trị có cải thiện kết quả hay không và liệu các nguy cơ của việc điều trị bằng thuốc có cao hơn các nguy cơ của bệnh không được điều trị hay không. Do tuần hoàn tử cung-nhau thai bị giãn tối đa và không thể tự động điều chỉnh được nên việc làm giảm BP của mẹ bằng các loại thuốc có thể làm giảm đột ngột lưu lượng máu tử cung-nhau thai. Thuốc lợi tiểu làm giảm lưu lượng máu lưu thông hiệu quả ở mẹ; liên tục giảm làm tăng nguy cơ hạn chế tăng trưởng bào thai. Tuy nhiên, tăng huyết áp có suy thận được điều trị ngay cả khi tăng huyết áp nhẹ hoặc trung bình.
Đối với tăng huyết áp nhẹ hoặc trung bình (BP tâm thu từ 140 đến 159 mm Hg hoặc BP tâm trương từ 90 đến 109 mm Hg) với BP không ổn định, hoạt động thể chất giảm có thể làm giảm BP và cải thiện sự tăng trưởng của thai nhi, làm cho nguy cơ ở giai đoạn chu sinh tương tự như ở phụ nữ không bị tăng huyết áp. Tuy nhiên, nếu biện pháp điều trị bảo tồn này không làm giảm BP, nhiều chuyên gia khuyên nên điều trị bằng thuốc. Phụ nữ đang dùng methyldopa, thuốc chẹn beta, thuốc chẹn kênh canxi hoặc phối hợp điều trị trước khi mang thai có thể tiếp tục dùng các loại thuốc này. Tuy nhiên, cần phải ngừng thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc chẹn thụ thể angiotensin II khi có chẩn đoán xác định là có thai.
Đối với tăng huyết áp nặng (BP tâm thu ≥ 160 mm Hg hoặc BP tâm trương ≥ 110 mm Hg), có chỉ định điều trị bằng thuốc. Nguy cơ bị các biến chứng – người mẹ (tiến triển của rối loạn chức năng nội tạng, tiền sản giật) và thai nhi (sinh non, hạn chế tăng trưởng, thai chết lưu) tăng lên đáng kể. Có thể cần phải dùng một số loại thuốc hạ huyết áp.
Tất cả phụ nữ bị tăng huyết áp mạn tính trong quá trình mang thai cần phải được dạy cách tự theo dõi BP và họ cần phải được đánh giá về tổn thương ở cơ quan đích. Đánh giá, được thực hiện vào lần khám ban đầu và định kỳ sau đó, bao gồm
-
Nồng độ creatinine huyết thanh, các chất điện giải và nồng độ axit uric
-
Các xét nghiệm chức năng gan
-
Số lượng tiểu cầu
-
Đánh giá protein nước tiểu
-
Thường là soi đáy mắt
Thuốc
Các thuốc hàng đầu điều trị tăng huyết áp trong quá trình mang thai bao gồm
-
Methyldopa
-
Thuốc chẹn beta
-
Thuốc chẹn kênh canxi
Liều methyldopa ban đầu là 250 mg uống hai lần mỗi ngày, tăng lên khi cần đến tổng cộng là 2 g mỗi ngày trừ khi có tình trạng buồn ngủ quá mức, trầm cảm hoặc hạ huyết áp thế đứng có triệu chứng.
Thuốc chẹn beta được sử dụng phổ biến nhất là labetol (thuốc chẹn beta có một số tác dụng chẹn alpha-1), có thể được sử dụng riêng hoặc kèm theo methyldopa khi đã đạt liều methyldopa tối đa hàng ngày. Liều labetol thông thường là 100 mg hai lần hoặc 3 lần mỗi ngày, tăng lên khi cần thiết đến tổng liều tối đa hàng ngày là 2400 mg. Tác dụng bất lợi của thuốc chẹn beta bao gồm tăng nguy cơ hạn chế tăng trưởng của thai nhi, giảm mức năng lượng của mẹ và trầm cảm ở mẹ.
Nifedipine phóng thích kéo dài, thuốc chẹn kênh canxi, có thể được ưa dùng vì dùng một lần/ngày (liều ban đầu là 30 mg; liều tối đa hàng ngày là 120 mg); tác dụng bất lợi bao gồm đau đầu và phù nề trước xương chày. Thuốc lợi tiểu thiazide chỉ được sử dụng để điều trị tăng huyết áp mạn tính trong quá trình mang thai nếu lợi ích tiềm năng nhiều hơn nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi. Liều có thể được điều chỉnh để giảm thiểu các tác dụng bất lợi như là hạ kali máu.
Thường tránh dùng một số loại thuốc hạ huyết áp trong quá trình mang thai:
-
Chống chỉ định dùng các thuốc ức chế men chuyển angiotension do làm tăng nguy cơ gây các bất thường ở đường tiết niệu của thai nhi.
-
Chống chỉ định dùng thuốc chẹn thụ thể angiotension II vì các thuốc này làm tăng nguy cơ rối loạn chức năng thận, giảm sản phổi, các dị tật ở xương và tử vong ở thai nhi.
-
Nên tránh dùng thuốc đối kháng aldosterone (spironolactone và eplerenone) vì các thuốc này có thể gây nữ tính hóa ở thai nhi nam.
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tăng Huyết Áp Khi Mang Thai trên website Richlandemerald.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!